Trong nhiều ngày thảm khốc, là chứng nhân và là một thành viên trong cộng đồng “người Sài Gòn - Việt Nam thương nhau - giúp nhau”, tôi ghi nhật ký đều đặn. Ghi, cứ cắm cúi ghi mỗi đêm, chỉ để nỗi đau rướm máu chịu không nổi dịu bớt. Rồi FB bỗng bị “đình chỉ”, thêm nỗi buồn bị xóa trắng mọi ghi chép.
Lúc ấy, tôi mới biết từng trang nhật ký đó đã được 2 ông con trai lặng lẽ nhờ một cô giáo dạy toán ở Đà Lạt lưu giữ tất. Từ đó, mỗi ngày trong 4 năm sau Covid, tôi phục hồi dần những trang “ký ức mà cứ nhớ tới là mình rùng mình kinh sợ, muốn quên mà lòng cứ nhớ”.
Ông bạn thân Phạm Phú Ngọc Trai của tôi đã đọc bản thảo đầu tiên của tôi như một “người trong cuộc”. Anh viết tới hai bản “Lời tựa” mà theo anh, "viết rồi thấy chưa nói đủ, viết lại" giữa núi công việc anh đang cố vấn (chuyên nghiệp và tâm huyết) cho nhiều tổ chức, địa phương cần tái cấu trúc. Và tôi kinh ngạc là… anh đọc rất kỹ cả mấy trăm trang, bằng chứng là anh gửi kèm tờ "sớ" dài “đề nghị” tác giả xem xét chỉnh sửa nhiều chỗ cho bớt cảm xúc, cho mềm lại, bình tĩnh lại.
Rồi cuối bài, anh khuyên “Chỉ mong người đọc, khi bước vào cuốn sách này, hãy bước chậm, đọc sâu và để trái tim mình mở ra. Vì giữa những dòng chữ kia là những con người thật, những cuộc đời thật-từng đi qua cơn bão bằng tất cả lòng tin và nghị lực sống.
Sài Gòn từng đau. Nhưng Sài Gòn chưa từng gục ngã".
Mời bạn đọc chậm một trong hai lời tựa của doanh nhân, chuyên gia kinh tế Phạm Phú Ngọc Trai.
“Có những cuốn sách ra đời như một cách để ghi nhớ. Có những cuốn khác lại như để soi chiếu và chữa lành. Nhưng cũng có những tác phẩm, như Sài Gòn Bao Thương của nhà báo Vũ Kim Hạnh, không chỉ lưu giữ ký ức mà còn làm thức tỉnh tinh thần cộng đồng – bằng sự chân thành, nhẫn nại và sâu lắng từ chính những điều rất thật.
Cuốn sách được viết ra không phải để kể lại những con số hay sự kiện – mà là để gìn giữ một phần ký ức tập thể, được lặng lẽ khắc họa qua góc nhìn của một người từng sống qua đại dịch, từng đi qua những tháng ngày không tưởng trong cùng một thành phố, và từng dấn thân trong những hành động sẻ chia – để không ai bị bỏ lại phía sau.
Ngay từ những trang đầu tiên, người đọc như bước vào một thế giới riêng tư, nơi cảm xúc cá nhân lồng ghép với ký ức tập thể. Những dòng viết gửi đến người bạn đời đã khuất không phải là tiếng gọi trong nỗi cô đơn, mà là một cuộc đối thoại ấm áp – giữa người đi và người ở lại – trong bối cảnh Sài Gòn phong tỏa, hoang vắng và đầy tổn thương.
Tôi – với tư cách là một người bạn của tác giả và sống chung trong thành phố ấy, cũng đã trải qua những khoảnh khắc mà cuộc sống bị đảo lộn đến mức tưởng như phi thực – đã xúc động thật sự khi đọc những dòng viết của chị Hạnh. Vì chúng không chỉ là hồi ức, mà là một lời chứng: rằng chúng ta đã từng sống, từng yêu, từng mất mát – và từng nhân ái – trong cùng một không gian, cùng một thời khắc lịch sử.
Có thể nói, phần đầu tiên của sách – Sài Gòn Bi Thương – là những trang viết vừa riêng, vừa chung. Những dòng nhật ký, lời kể và tâm sự đó không chỉ dành riêng cho người đã mất, mà còn dành cho tất cả những ai từng cảm thấy lạc lõng, từng hoang mang giữa những giăng dây, từng đứng lặng nhìn phố xá vắng người như một cảnh phim. Nhưng khác với phim ảnh, nỗi sợ ở đây là có thật. Sự mất mát là có thật. Và điều bất ngờ là: lòng người – trong bối cảnh đó – lại càng thật hơn bao giờ hết.
Khi bước sang phần thứ hai – Sài Gòn Bao Thương – giọng văn không còn là nỗi buồn mà dần chuyển sang niềm xúc động. Ở đây, người đọc thấy một Sài Gòn không chỉ chịu đựng, mà còn sẻ chia. Không chỉ có những cánh cửa đóng kín, mà có cả những bàn tay mở ra. Không chỉ có giăng dây cách ly, mà còn có những chiếc xe chở rau, chở cơm, chở tình nghĩa đi vào từng ngõ nhỏ.
Điều tôi trân trọng nhất là cách mà tác giả không kể chuyện như một người bên ngoài – mà như chính người trong cuộc. Bởi chị không chỉ quan sát – chị lăn xả. Chị không chỉ ghi chép – mà chị đồng hành, góp sức, gắn bó. Những chương trình thiện nguyện như Vòng Tay Việt, những nhóm bạn trẻ lặng thầm nấu hàng nghìn suất ăn mỗi ngày, những anh chị tiểu thương âm thầm giữ giá, tặng rau, xẻ cơm – tất cả được kể lại như một bản hợp xướng lặng lẽ, nhưng đầy hào sảng.
Có lẽ cũng vì tác giả từng gắn bó với Sài Gòn bằng tình cảm sâu dày, từng dấn thân bằng trái tim nóng và đầu lạnh, nên những gì chị viết ra không cần tô vẽ mà vẫn chạm đến tim người đọc. Chúng ta thấy trong từng dòng chữ là bóng dáng của chính mình: hàng xóm thì thầm với nhau bên giàn bông giấy, từng cụ già ngóng quà trước cửa, từng người bán vé số nhẫn nại chờ chờ đợi một ngày mới tươi sáng.
Đặc biệt, phần ba của cuốn sách – Sài Gòn Với Những Thân Phận Mồ Côi – là chương buồn nhất, và cũng nhức nhối nhất. Ở đó, người đọc không chỉ rơi nước mắt vì những mất mát của người khác, mà còn thổn thức trước câu hỏi: chúng ta sẽ làm gì để không lặp lại điều này? Những đứa trẻ mất cả cha lẫn mẹ, những ông bà lưng đã còng vẫn gắng nuôi cháu, những căn nhà trở nên im ắng đến rợn người… là những sự thật khiến bất kỳ ai còn lương tri cũng phải chậm lại.
Ở đó, tôi đọc được một tinh thần công dân – không chỉ cảm thương, mà còn trăn trở. Tác giả không kể lại chỉ để gây xúc động, mà còn để kêu gọi trách nhiệm. Những đề xuất thầm lặng của chị – về chính sách dài hạn, về giáo dục nhân bản, về những mô hình hỗ trợ trẻ mồ côi hậu Covid – chính là lời nhắn gửi không chỉ tới chính quyền, mà tới từng người dân. Đó là lúc một người làm báo không chỉ làm nghề, mà làm người – bằng tất cả trái tim và sự cam kết.
“Sài Gòn Bao Thương” – hơn cả một cuốn sách – là một lời nhắc để không quên. Và như tôi đã nói: tôi đọc nó không chỉ bằng tư cách một người bạn, mà là một người đồng hành – từng sống cùng thời, từng trải qua nỗi hoang mang rất thật, từng ngồi lại mỗi tối tự hỏi: ngày mai sẽ ra sao?
Chính vì thế, khi đọc lại những dòng viết của chị Hạnh, tôi như thấy lại một phần của chính mình trong đó. Tôi tin rằng, bất kỳ ai từng sống ở Sài Gòn trong năm ấy – năm mà thành phố đau thương nhất và cũng đẹp nhất – cũng sẽ thấy như tôi: rằng đây không phải là cuốn sách của một người viết, mà là lời chứng chung của một cộng đồng biết thương nhau- cộng đồng bao thương.
Tôi không dám nói thêm nhiều. Chỉ mong người đọc, khi bước vào cuốn sách này, hãy bước chậm, đọc sâu – và để trái tim mình mở ra. Vì giữa những dòng chữ kia, là những con người thật, những cuộc đời thật – từng đi qua cơn bão bằng tất cả lòng tin và nghị lực sống.
Sài Gòn từng đau. Nhưng Sài Gòn chưa từng gục ngã."



